Nghệ thuật múa rối nước - Bản sắc văn hóa của miền quê lúa Thái Bình
Nghệ thuật múa rối nước từ bao đời đã biểu hiện sức sống và bản sắc của loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống ở miền quê lúa Thái Bình. Văn hóa, văn minh lúa nước được cấu thành từ nhiều yếu tố, nhưng loại hình nghệ thuật múa rối nước ở Thái Bình cũng đã góp phần quan trọng tạo nên bản sắc của nền văn hóa, văn minh đó.
Trong nền nghệ thuật sân khấu, múa rối nước là một bộ môn độc đáo, dùng mặt nước làm nơi hoạt động cho các nhân vật. Đây là một loại hình nghệ thuật diễn xướng hiếm thấy ở trên thế giới, nó là một “đặc sản văn hoá” của đất nước Việt Nam và Thái Bình là một trong những cái nôi sản sinh ra nghệ thuật múa rối nước độc đáo ấy.
Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật tổng hợp vừa tinh vi, vừa là thứ bí truyền, cha truyền con nối cho nên trải qua bao thế kỷ, nghệ thuật này chỉ tồn tại trên một địa bàn hẹp, tập trung ở vùng ven sông Tiên Hưng, vùng ngã ba đường 10 và đường 39 gặp nhau với 7 phường hội cổ truyền trên đất Đông Hưng: Bắc Lạng, Tây Trong, Tây ngoài (xã Nguyên Xá); Tăng (xã Phú Châu); Tuộc (xã Phú Lương); Đống(xã Đông Các); Kỳ hội (xã Đông Hà). Cho đến nay Thái Bình chỉ còn hai phường rối đang hoạt động là phường rối nước làng Nguyễn (xã Nguyên Xá) và phường rối làng Đống (xã Đông Các) thuộc huyện Đông Hưng. Hiện tại hai phường rối này vẫn được đánh giá cao trong ngành múa rối của Việt Nam.
Là một loại hình nghệ thuật sân khấu nên nghệ thuật múa rối nước cũng mang tính tổng hợp, đa diện của nhiều thành phần, nhưng múa rối nước cũng có cái độc đáo, diệu kỳ, hấp dẫn từ sân khấu, buồng trò, quân rối đến các yếu tố kỳ ảo khác như máy điều khiển nghệ nhân, trò và tích trò. Cái độc đáo ngay từ trong tên gọi “Múa rối nước” là lấy nước làm sân khấu biểu diễn. Mặt nước ao hồ vừa là sân khấu, là môi trường, là khung cảnh, vừa là một nhân vật hỗ trợ cho con rối hoạt động dưới sự điều khiển tài ba của các nghệ nhân. Nếu mặt nước là sân khấu thì dưới mặt nước là hệ thống máy điều khiển với các kiểu máy sào, máy dây chằng chịt được nối với buồng trò làm bằng tre phên để các nghệ nhân ngâm mình trong đó mà điều khiển máy để cho quân rối ẩn hiện, nhịp nhàng, uyển chuyển. Trong nghệ thuật múa rối nước thì quân rối là diễn viên trực tiếp là cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng nhất góp phần tạo lên thành công của tích trò. Ở Thái Bình, phường rối nước làng Nguyễn là nơi còn lưu giữ được nhiều loại quân rối nhất từ chú Tiễu đến thày Đường Tăng, từ con Lân cỡ lớn đến con vịt con cá bé nhỏ, xinh xắn…Nhìn vào quân rối nước phong phú đa dạng ở làng Nguyễn người ta mới thấy hết tài ba của những nghệ nhân cả về nghệ thuật tạo hình lẫn kỹ thuật chế tạo máy điều khiển. Đặc biệt, chú Tễu làng Nguyễn đã trở thành nhân vật quen thuộc của ngành rối Việt Nam và được nhiều người nước ngoài quan tâm ao ước muốn có. Tễu làng Nguyễn là hình tượng một trai cày khỏe mạnh, béo tròn, phốp pháp da dẻ hồng hào với nụ cười sảng khoái không gợn chút suy tư. Tễu là nhân vật thường xuất hiện lúc mở đầu buổi diễn, điều khiển chương trình, giáo trò, dẹp trật tự… Qua diễn xuất, người ta dễ dàng nhận thấy Tễu là nhân vật tiêu biểu cho người nông dân vùng lúa nước. Thông qua nhân vật Tễu người xem thấy rất gần gũi với người nông dân, dễ trở thành bạn bè tương đắc với người nông dân sống lạc quan yêu đời biết tận dụng tiếng cười trong sản xuất và chiến đấu.
Các phường hội rối nước làng Nguyễn, làng Đống là nơi tập trung các tích trò phong phú nhất trong toàn quốc. Xem qua hàng trăm tích trò trong truyền thống rối nước Thái Bình có thể quy về mấy loại sau: Trò ca ngợi thú vui nghề nghiệp làm ruộng và đánh cá như các trò đi bừa, đi cấy, chăn vịt, úp nơm, câu cá, xay lúa, giã gạo…; trò vui giải trí phản ánh sinh động lễ hội nông nghiệp như: Đấu vật, chọi gà, đua thuyền, bơi chải, chọi trâu, đánh đu…; tích trò ca ngợi truyền thống chống xâm lược của dân tộc như: Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo…; tích trò các trích đoạn chèo tuồng như: Thị Màu lên chùa, Thất Cầm Mạnh Hoạch…; các nghi thức tín ngưỡng như: đi hội, tô tượng, đúc chuông, lễ phật, rước thần. Nhìn vào các tích trò trên ta thấy được phần nào đặc trưng và ưu thế của nghệ thuật múa rối nước trong việc phản ánh cuộc sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta.
Để có được một buổi biểu diễn hoàn chỉnh, nghệ thuật múa rối nước phải tập trung trí tuệ tài ba của nhiều nghệ nhân, có nghệ nhân chuyên sáng tác tích trò, có nghệ nhân chuyên tạc quân rối, nghệ nhân chuyên chế tạo máy điều khiển và nghệ nhân điều khiển quân rối trên sàn diễn ăn khớp nhịp nhàng với lời ca, tiếng nói của nghệ nhân hát xướng. Từng ấy công việc đòi hỏi tài năng đa dạng của các nghệ nhân mà mỗi phường hội số người lại có hạn. Việc kết nạp thêm các thành viên không cho phép tiến hành một cách rộng rãi bởi vì còn phải giữ bí truyền cho phường hội. So với một gánh chèo, gánh tuồng thì một phường hội rối nước muốn dàn dựng một tích trò phải tốn kém gấp nhiều lần, nhưng vì niềm đam mê, các phường hội rối nước ở huyện Đông Hưng vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Nghệ thuật múa rối nước ở Thái Bình chính là sự kết tinh sáng tạo, trí thông minh, tài khéo léo của người dân nơi đây qua bao đời tạo nên. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, rối nước Thái Bình vẫn trường tồn với thời gian. Cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của tỉnh nhằm “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” cùng với sự yêu nghề của những nghệ nhân phường rối nước, chắc chắn rằng nghệ thuật rối nước sẽ ngày càng phát triển./.